Các xét nghiệm thăm dò
Nên được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân nghi ngờ nhiễm Ebola trong khi bệnh nhân được cách ly.[91]
Trả kết quả từ 24 đến 48 giờ trước khi xét nghiệm ELISA.
Hiện có một số bộ PCR thương mại khác nhau với độ nhạy, độ đặc hiệu và hạn chế phát hiện khác nhau.[92]
Ở phương Tây, xét nghiệm chỉ có thể thực hiện ở các phòng thí nghiệm khu vực hoặc quốc gia có các trang thiết bị loại 4.[10] Trong các môi trường lưu hành dịch và tại một số quốc gia, các phòng thí nghiệm loại 4 được thiết lập tại địa phương và kết quả được trả sau 4 giờ kể từ khi bệnh phẩm được gửi đến.
Có thể phát hiện được ARN vi-rút trong máu của bệnh nhân bằng RT-PCR từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 6, cho đến 17 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng. Kết quả PCR dương tính có nghĩa là bệnh nhân có khả năng lây nhiễm, đặc biệt nếu họ bị tiêu chảy, nôn mửa, hoặc chảy máu.
Nếu kết quả âm tính, cần phải làm lại xét nghiệm trong vòng 48 giờ do tải lượng vi-rút thấp và không thể phát hiện sớm trong giai đoạn đầu bệnh. Các xét nghiệm có kết quả âm tính nên được lặp lại để loại trừ chẩn đoán nếu mức độ nghi ngờ cao (hoặc xác nhận giải pháp điều trị bệnh).[91]
Tải lượng vi-rút cao hơn tương ứng với kết quả bất lợi và tỷ lệ tử vong tăng.[20][21][22][62][76][91][93]
dương tính với ARN vi-rút Ebola
Tiêu bản máu đặc và máu đàn nhuộm Giemsa và các xét nghiệm chẩn đoán nhanh là các xét nghiệm được lựa chọn để sàng lọc bệnh sốt rét.
Kết quả âm tính nên việc nhiễm vi-rút Ebola có nhiều khả năng hơn trong bối cảnh dịch tễ học phù hợp; tuy nhiên, đồng nhiễm sốt rét đã được thấy ở 5% số bệnh nhân ở Tây Phi trong đợt dịch năm 2014, do đó cần cân nhắc khả năng nhiễm kép ở tất cả các bệnh nhân.[76]
âm tính (có thể dương tính nếu đồng nhiễm)
Cần làm xét nghiệm quan trọng (nếu có) ở những nơi mà các xét nghiệm khác bị hạn chế.
Có thể chỉ điểm cho tổn thương thận cấp.[95]
Đặc biệt hữu ích ở những bệnh nhân bị tiêu chảy và nôn mửa.
Hạ kali máu hoặc tăng kali máu do nôn mửa và tiêu chảy hoặc tổn thương thận cấp tính, được thấy ở khoảng 33% số ca bệnh trong đợt bùng phát năm 2014.[76]
Hạ canxi máu có thể gây tử vong.[16]
Có ích trong việc hướng dẫn điều chỉnh điện giải và truyền dịch thay thế.
có thể bất thường
Cần làm xét nghiệm quan trọng (nếu có) ở những nơi mà các xét nghiệm khác bị hạn chế.
Có thể là biểu hiện của tổn thương thận cấp tính, một triệu chứng thường gặp trong đợt bùng phát năm 2014,[22][95] và gây tử vong.[76]
Đặc biệt hữu ích ở những bệnh nhân bị tiêu chảy và nôn mửa.
có thể tăng
Cần làm xét nghiệm quan trọng (nếu có) ở những nơi mà các xét nghiệm khác bị hạn chế.
Tăng lactate là một dấu ấn của giảm tưới máu và là một dấu hiệu của sốc. Chỉ số này hữu ích ở những bệnh nhân nặng có các dấu hiệu nhiễm trùng huyết để xác định mức độ giảm tưới máu hệ thống và để hướng dẫn liệu pháp bù dịch.[96]
Tăng Lactate là một dấu hiệu của nhiễm khuẩn huyết gram âm vào ngày 15 ở một bệnh nhân được điều trị tại Đức.[38]
biến đổi
PH máu động mạch hoặc tĩnh mạch và bicarbonate hữu ích ở những bệnh nhân nặng có các dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết để xác định mức độ giảm tưới máu hệ thống và để hướng dẫn liệu pháp bù dịch.[96]
biến đổi
Bệnh nhân có thể giảm số lượng tiểu cầu và giảm lympho bào rõ rệt ở giai đoạn đầu khi nhiễm bệnh; tuy nhiên, đây không phải là biểu hiện mang tính chẩn đoán. Thông thường sau đó là tăng bạch cầu trung tính ở giai đoạn cuối của những bệnh nhân mà cuối cùng sẽ hồi phục, cùng với bình thường hóa giảm tiểu cầu. Tăng bạch cầu có thể kéo dài và biểu hiện các hình thái chưa trưởng thành.[16]
Bệnh nhân bị bệnh nặng có thể có giảm số lượng tiểu cầu tiến triển, như là một biểu hiện của đông máu nội mạch lan tỏa (DIC).
Giảm haemoglobin được báo cáo ở 24% số bệnh nhân trong đợt bùng phát năm 2014,[76] và có liên quan đến xuất huyết trong các đợt bùng phát trước đó.[16]
giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu lympho rõ rệt; giảm haemoglobin (nếu có biểu hiện chảy máu)
Thời gian prothrombin kéo dài (PT) hoặc thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT) kéo dài có liên quan đến tình trạng bệnh nặng hơn và các biểu hiện chảy máu chẳng hạn như DIC.
Bệnh nhân tử vong đã được phát hiện có nồng độ D-dimer cao gấp 4 lần trong ngày thứ 6 đến ngày thứ 8 của bệnh so với bệnh nhân sống sót.[97]
PT hoặc aPPT kéo dài, D-dimer tăng (nếu có biểu hiện chảy máu)
Hồng cầu niệu hoặc protein niệu có thể gặp ở trường hợp nặng[16]
Thiểu niệu không đáp ứng với bù dịch là dấu hiệu tiên lượng xấu.
có thể quan sát thấy hồng cầu niệu hoặc protein niệu
Cả ALT và AST thường tăng lên; tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu cho thấy rằng AST tăng không tương xứng với ALT, và điều này gợi ý tới tổn thương mô toàn thân hơn là tổn thương tế bào gan.[76]
Tỷ lệ AST: ALT đạt đỉnh điểm ở mức 15:1 vào các ngày thứ 6 đến ngày thứ 8 của bệnh trong các ca bệnh tử vong khi so sánh với các ca bệnh không tử vong, đạt đỉnh điểm ở mức 5:1.[8][16][97]
Bilirubin, GGT và ALP thường tăng nhẹ. ALT tăng cao và vàng da nghiêm trọng gợi ý một chẩn đoán khác (ví dụ: viêm gan do vi-rút).
tỷ lệ AST:ALT cao; bilirubin, GGT và ALP có thể tăng nhẹ
Amylase huyết thanh tăng đã được báo cáo trong một số nghiên cứu và chỉ ra có biểu hiện của viêm tụy, một dấu hiệu của nhiễm trùng nặng.[16]
có thể tăng
Cấy máu âm tính rất hữu ích do có thể loại trừ các nguyên nhân nhiễm trùng không do vi-rút khác (ví dụ: nhiễm khuẩn huyết, sốt thương hàn).
Nhiễm khuẩn huyết gram âm, được cho là do thẩm lậu vi khuẩn đường ruột, và là một biến chứng của bệnh gặp ở hai bệnh nhân.[98][38] Tuy nhiên, một nghiên cứu tại Sierra Leone, nơi thực hiện cấy máu từ các bệnh nhân được nhập viện điều trị Ebola cho thấy chỉ có một trong số 22 mẫu nuôi cấy có kết quả dương tính với mẫu bệnh phẩm nghi nhiễm.[99]
Do đó, nên cấy máu thường quy và/hoặc vào thời điểm khởi phát các triệu chứng đường tiêu hóa hoặc khi triệu chứng lâm sàng khác xấu đi.
âm tính
Xét nghiệm chẩn đoán hữu ích với độ đặc hiệu cao; tuy nhiên, xét nghiệm này không sẵn có ở mọi nơi. Có thể được sử dụng để xác nhận chẩn đoán cùng với kết quả RT-PCR dương tính.
Hầu hết có khả năng đưa ra kết quả dương tính từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 6 sau khi nhiễm bệnh và có thể cho kết quả biến đổi trong khoảng rộng từ ngày 7 đến ngày 16.[43]
dương tính đối với kháng thể vi-rút Ebola
Hữu ích trong giai đoạn muộn của bệnh
Kháng thể IgM có thể xuất hiện trong huyết thanh sớm nhất là ngày thứ 2 sau nhiễm vi-rút, nhưng có thể cho kết quả biến đổi cho đến ngày thứ 9. Kết quả này trở thành âm tính từ ngày 30 đến ngày 168 sau khi khởi phát các triệu chứng. Phản ứng IgG phát triển từ ngày 6 đến ngày 18 và có thể kéo dài trong nhiều năm.[43]
Kết quả IgM dương tính hoặc hiệu giá kháng thể IgG tăng là bằng chứng rõ ràng cho thấy bệnh nhân bị nhiễm vi-rút Ebola gần đây.
dương tính
Hữu ích với những bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp.
Thâm nhiễm phổi không phải là điển hình của nhiễm trùng này và gợi ý chẩn đoán khác (hoặc bệnh đi kèm).
Có thể khó sắp xếp bệnh nhân trong một phòng cách ly nên cần đưa ra chỉ định một cách thận trọng để tránh lây bệnh.[100]
âm tính
Xét nghiệm PCR nhanh đối với nhiễm vi-rút Ebola vẫn là một trở ngại chính cho việc cách ly có hiệu quả và có mục tiêu của những bệnh nhân nghi ngờ. Các xét nghiệm hiện tại phải mất trung bình là 4 giờ để thực hiện trong một phòng thí nghiệm được trang bị đầy đủ, nhưng kết quả có thể mất vài ngày mới được gửi đến các vùng hẻo lánh. Điều này có nghĩa là, cho đến khi kết quả được khẳng định là âm tính, bệnh nhân có thể bị sốt do vi-rút khác, cũng được cách ly cùng các bệnh nhân nhiễm vi-rút Ebola bị cách ly và thường vô tình bị phơi nhiễm với vi-rút này.
Do đó, các xét nghiệm tại giường bệnh có thể góp phần đáng kể vào việc kiểm soát nhiễm trùng tại các trung tâm điều trị.
Một số công nghệ khác nhau đang được WHO đánh giá để sử dụng trong điều kiện tại thực địa. Các công nghệ này bao gồm các phân tích dựa trên RT-PCR đã được đơn giản hóa hơn để sử dụng với thời gian quay vòng ngắn hơn là <1 giờ. WTO đã liệt kê Bộ Xét nghiệm Nhanh Kháng nguyên ReEBOV™ có tiềm năng để sử dụng; tuy nhiên, hiện tại bộ này chỉ được khuyến cáo sử dụng trong những tình huống đặc biệt. World Health Organization (WHO): interim guidance on the use of rapid Ebola antigen detection tests external link opens in a new window
Các phương pháp thay thế là các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên dựa trên ELISA có thể cho kết quả nhanh hơn và đơn giản hơn với lợi thế là chỉ cần một giọt máu. Bất lợi lớn nhất của phương pháp này là giảm độ nhạy, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của bệnh.[101]
Công nghệ Nanopore (Vi lỗ) có thể cho phép phát hiện nhanh và giải trình tự gen dù lượng vi-rút rất thấp và có thể được triển khai sử dụng như bộ dụng cụ phát hiện bỏ túi.[103][104][105]
Công cụ chẩn đoán GeneXpert® (Xpert® Ebola) đã được thử nghiệm trong lĩnh vực này và là một hệ thống dựa trên hộp tự động, đòi hỏi phải có kỹ năng phòng thí nghiệm tối thiểu. Một mẫu bệnh phẩm khử hoạt tính được đặt vào một hộp sử dụng một lần, sau đó hộp này được đưa vào máy kín. Chuẩn bị mẫu, khuếch đại và phát hiện axit nucleic, và đưa ra kết quả là các quy trình tự động, giảm thiểu yêu cầu đào tạo nhân viên, nguy cơ lây nhiễm và lây nhiễm chéo.[106]Xét nghiệm này đã được sử dụng trên thực địa trong đợt bùng phát năm 2018 ở Cộng hòa Dân chủ Congo.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt một xét nghiệm nhanh, sử dụng một lần để phát hiện Zaire ebolavirus. Đây là xét nghiệm nhanh tìm kháng nguyên từ máu chích ngón tay sử dụng cho trường hợp khẩn cấp, là xét nghiệm đầu tiên sử dụng đầu đọc hoạt động bằng pin có thể cho kết quả bên ngoài phòng thí nghiệm.[108]
Đây là một lĩnh vực phát triển nhanh chóng và các bộ kit khác nhau được phê duyệt theo từng quốc gia và cơ sở y tế mà bộ kit đó sẽ được triển khai. WHO và Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đưa ra khuyến cáo: World Health Organization (WHO): Ebola vaccines, therapies, and diagnostics external link opens in a new window Food and Drug Administration (FDA): 2014 Ebola virus emergency use authorizations external link opens in a new window
dương tính với vi-rút Ebola
Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm của chúng tôi